Canh Dần là năm có Thiên Can đứng thứ bảy thuộc về Canh và Địa Chi đứng thứ ba thuộc về Dần. Canh là một trong Thập Can; và Dần là một trong Thập nhị Chi. Năm Dần thường mang đến vận hạn cho người tuổi Dần, để giải bớt hạn, gia chủ cần tìm hiểu về thuộc tính cũng như vận dụng cách giải hạn năm Dần.
Ngũ hành, Bát quái
Theo Bát quái thì Canh Dần đều thuộc Can Chi dương nên được gọi năm Dương Tuế. Còn Ngũ hành thuộc Mộc (Tùng Bá Mộc – Cây tùng già) – Tính theo độ số Ấu Tráng Lão trong Ngũ Hành thì thuộc Tráng ứng vào cung Quan Đới của vòng Trường Sinh tức bắt đầu trưởng thành, chủ về quyền tước, địa vị. Là hướng thịnh. Tuy nhiên gặp năm hay gặp tuổi tính về Sinh xuất hay Khắc nhập như sợi dây treo cổ thường gặp phải tai ương bệnh tật.
Nếu nhìn theo góc độ tâm linh Dần mang 5 Ngũ Hành tính theo thứ tự theo năm sinh âm lịch (tính vào năm Canh Dần 2010):
– Mậu Dần 13 tuổi và 73 tuổi: Thành Đầu Thổ
– Bính Dần 25 tuổi: Lư Trung Hỏa
– Giáp Dần 37 tuổi: Đại khê Thủy
– Nhâm Dần 49 tuổi: Kim Bạch Kim
– Canh Dần 1 tuổi và 61 tuổi: Tùng Bá Mộc
Trong Mệnh Lý học hai chữ Canh Dần được diễn đạt qua biện chứng Can Chi – Âm Dương – Ngũ Hành như sau: Canh thuộc Dương Kim nằm thứ bảy trong Thập Can, chủ về kim loại. Còn Dần thuộc Dương Mộc nằm thứ ba trong Thập Nhị Chi, tượng hình của khí động, vạn vật muốn vùng lên mà đâm chòi nảy lá. Cả hai thuộc Dương tức số lẻ.
Qua tính chất trên có thể nói năm Canh Dần thuộc vào năm con “cọp thép”, lạnh lùng mà năng nổ, không chịu phục tùng ai như chúa sơn lâm muốn làm chủ một cánh rừng. Luôn luôn có ý chí tự tiến thân. Tuy nhiên để được ảnh hưởng về độ số may mắn còn tùy thuộc vào ai hợp với năm Canh Dần, như hợp về Thiên Can Địa Chi, Âm Dương Ngũ Hành. Phân tích các điều kiện trên chúng ta diễn đạt được như sau, về:
– Thiên Can ngũ hợp hóa: Tuổi Canh hợp với Ất (tuổi hay ngày tháng mang chữ Ất), vì Ất Âm Mộc còn Canh Dương Kim gặp hóa Kim. Lưu ý Kim đây không phải kim tiền mà thuộc Ngũ Hành, người mang chữ Canh hoặc mạng Kim gặp chữ Ất là hợp.
– Thiên Can tương xung: Giáp xung Canh tức hướng Đông xung với hướng Tây. Nói về phong thủy, ai mang chữ Canh không nên đi về hướng Đông, nhất là tạo dựng nhà cửa sẽ gặp nhiều điều xui rủi, không may mắn…
– Thiên Can tương khắc: Bính khắc với Canh: Bính thuộc Dương Hỏa, Canh Dương Kim, là Hỏa khắc Kim, Canh bị Khắc Nhập. Canh khắc với Giáp: Giáp thuộc Dương Mộc, là Kim khắc Mộc. Canh được Khắc Xuất. Khắc Nhập (xấu) Khắc Xuất (bình hòa)
– Địa Chi lục hợp: Dần hợp với Hợi hóa Mộc, vì Dần Dương Mộc còn Hợi Âm Thủy, là Thủy sinh Mộc tức Dần được Sinh Nhập (tốt).
– Địa Chi tam hợp: Dần Ngọ Tuất tam hợp sinh Hỏa cục, ai mang mạng Hỏa sẽ được tốt đẹp nhiều phần.
– Địa Chi lục xung: Dần Thân xung nhau, vì Dần Dương Mộc còn Thân Dương Kim, là Kim khắc Mộc. Tuổi Dần gặp chữ Thân kém đi phần phúc.
– Địa Chi phá nhau: Dần phá Tỵ vì Tỵ thuộc Âm Hỏa, là Hỏa khắc Kim, nên tuổi Dần gặp chữ Tỵ mất phần phúc.
– Địa Chi tứ hành xung: Dần Thân Tỵ Hợi thường xấu theo từng cặp trong Lục Xung như Dần với Thân và Tỵ với Hợi, hay Dần với Tỵ, còn Dần với Hợi thuộc Địa Chi lục hợp chỉ xung khi tuổi Hợi mang hành Kim gặp khắc nhập mà thôi.
Về ngũ hành biện chứng: Qua tính cách Thiên Can Địa Chi năm Canh Dần như vừa diễn giải. Nhưng không phải trong xung khắc hay hóa hợp đều tốt hay xấu như đã nói, vì chúng còn ảnh hưởng về thuật biện chứng trong Ngũ Hành. Sẽ diễn giải như sau:
– Mộc sinh Hỏa: được Vượng là do Hỏa được sinh còn Mộc hao tổn, vì cây bị lửa đốt cháy rụi. Nên Hỏa được sinh nhập có phần phúc, còn Mộc gặp sinh xuất mất phần phúc.
– Lưỡng Mộc thành lâm: được Tướng, vì cây cùng cây hội lại thành rừng, từ rừng thưa thành cánh rừng rậm.
– Thủy khắc Mộc: gặp Hưu, vì Thủy là nước chăm bón cho cây được xanh tốt nên suy kiệt.. Nên chỉ có Mộc lợi không bị hao tổn gì.
– Mộc khắc Thổ: gặp Tử, như Thủy, đất dùng để trồng cây bao nhiêu màu mỡ đều bị cây hút hết làm đất cằn cỗi.
– Kim khắc Mộc: gặp Tù, cây bị búa chặt phá, cả hai đều bị hao tổn, cây chết mà búa cũng phải mòn. Mộc bị Khắc Nhập (xấu) còn Kim gặp Khắc Xuất (thứ hung).
Qua các thí dụ trên, sự tương sinh hay tương khắc chỉ có một chiều như Mộc sinh được Hỏa chứ Hỏa không sinh được Mộc; Mộc khắc Thổ chứ Thổ không khắc được Mộc…
Đây chỉ là phần cơ bản trong thuyết biện chứng, bởi trong Mệnh Lý học trong khắc có sinh hay trong sinh có khắc.
Giải hạn bằng phong thủy
Đối với những gia chủ sinh năm: 1944, 1945, 1952, 1953, 1966, 1967, 1974, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997. Tức cả năm sinh ở đây Ngũ hành thuộc về Thủy, mà năm nay ngũ hành thuộc về Mộc. Thủy sinh cho mộc là bị sinh xuất, có nghĩa là có vô nhưng lại ra nhiều hơn. Vì vậy những người mạng Thủy cần phải chú ý hơn nhiều nữa để giữ lại thị phần trong hành thủy mà chúng ta đã có sẵn để giảm bớt nguy cơ về sức khỏe cũng như về tài chánh. Rất nhiều hình thức hóa giải như sau:
Nếu nhà có khoảng trống sân rộng nên làm thác nước, hòn non bộ theo nguyên tắc ngũ hành. Nên nhớ ưu tiên mở cho thác nước chảy theo những ngày có ngũ hành thuộc về mộc hoặc những giờ có ngũ hành thuộc về mộc (nếu có thời gian)
Nếu nhà không có khoảng trống thì nên dùng vòi nước tưới vào sân vào buổi sáng trước lúc đi làm việc hoặc vào buổi trưa nắng. Biện pháp này dùng để khống chế lại cho hỏa và mộc.
Trong nhà thường xuyên lúc nào cũng có bể, lu, khạp để chứa nước sinh hoạt, nhằm ức chế lại hành Thủy của mình. Nên trưng bày vật khí phong thủy trong nhà gồm một trong hai con giáp đó là con chuột hoặc con heo. (2 con vật này ngũ hành nạp âm dương thuộc về thủy) sẽ là nhân vật chính hóa giải cho mình.
Nếu nhà của gia chủ có sanh năm trên mà ở phương hướng Đông (tính chất nạp âm dương của hướng đông là mộc 70 % , hỏa 30 %) thì nên sơn nhà mặt tiền gồm các màu như sau: màu xám lợt, màu xám đậm (ngũ hành thuộc về thủy, trong thủy lại có kim, kim thì sinh cho thủy) và màu trắng (thuộc về kim, kim thì thuộc tính mát lạnh,lại là tăng cường cho thủy mà thủy lại sinh cho mộc) vì lẽ đó sẽ hóa giải rất nhiều cho những người có mệnh thủy.
Trang phục nên mặc quần áo xám, đen và màu trắng. Những trang phục này sẽ góp phần rất nhiều cho mệnh Thủy. Xét về thiên can cho những người đứng về tuổi Giáp thì càng nên cẩn trọng hơn. Đó là tuổi sanh năm 1944 (giáp thân) và tuổi 1974 (giáp dần) hai tuổi này đều là mệnh Thủy. Nhưng đứng về Giáp.
Theo luật thiên can thì Canh phá Giáp. Trong khi đó năm Canh Dần 2010 thuộc về Mộc. Mộc thì cần Thủy sẽ cho Thủy suy yếu mọi mặt. Ngoài hai tuổi giáp này ra còn có những tuổi Giáp khác ví dụ: 1924, 1934, 1954, 1964, 1984, 1994 Thiên Can đều là Giáp nhưng tính chất Ngũ Hành lại khác nhau cũng nên dè chừng trong năm Canh Dần này.
TRỌNG HÙNG Fengshui
DiaOcOnline.vn
Ảnh: Internet